Lịch sử Ná Lạp

Họ ["Ná Lạp thị"] vốn là một họ cổ của người Nữ Chân, đã được ghi nhận là một trong 30 họ phổ biến nhất từ tận thời cuối nhà Đường. Thời nhà Liêu, họ này được gọi là [Nã Lãn thị; 拿懒氏], mẹ của Kim Thái Tổ Hoàn Nhan A Cốt Đả chính là người mang họ này. Trong thời Kim, họ này được phiên thành [Nạp Lan thị], đương thời được xưng là "Bạch hào tính thị" (白号姓氏). Thời nhà Nguyên, có họ Na Lạp thị kéo đến Mông Cổ sinh sống, thế cư Khoa Nhĩ Thấm hoặc A Nhĩ Ba. Đến thời nhà Minh, họ Na Lạp thị phát triển và sinh sống tại khu vực Hải Tây, ngày nay là các vùng Cát Lâm, Hắc Long Giang, Liêu NinhNội Mông Cổ.

Có một người tên Nạp Tề Bố Lộc (纳齐布禄), gầy dựng thanh thế thành lập nên Hỗ Luân quốc, là tổ tiên của cả bốn bộ quốc khác mà các Bối lặc đều mang họ Na Lạp thị, là Ô Lạp, Cáp Đạt, Huy Phát và Diệp Hách. Thế cư Hỗ Luân quốc, có một gia tộc Na Lạp thị về sau đến thành Trương thành lập một thế lực riêng. Tộc Cáp Đạt Na Lạp thị và Ô Lạp Na Lạp thị có cùng chung tổ tiên, đều là hậu duệ của Nạp Tề Bố Lộc, nhưng tộc Diệp Hách Ná Lạp được sáng lập bởi một người Mông Cổ tên Tinh Căn Đạt Nhĩ Hán (星根達爾漢), vốn thuộc họ Tümed (土默特氏 Thổ Mặc Đặc thị) đã chinh phạt họ Na Lạp của thành Trương, sau họ cũng đổi thành họ Na Lạp và phủ nền thống trị đến khắp các bờ sông Diệp Hách. Tộc Huy Phát Ná Lạp bắt nguồn từ một người thuộc họ Ikderi (益克得里氏, Ích Khắc Đắc Lý thị), cũng là một dân tộc Mông Cổ, họ nương nhờ một thủ lĩnh của thành Trương, đổi sang họ Na Lạp và dần di cư đến Huy Phát để phát triển. Với quan niệm gốc gác là trên hết của người Mãn, không ít họ Na Lạp thị về sau thường tự xưng là hậu duệ một trong Tứ gia tộc này, như nhà của Từ Hi Thái hậu là điển hình. Bên cạnh đó, hậu duệ Hỗ Luân quốc Na Lạp thị có một chi kéo đến Y Hãn Sơn, lập nên họ Y Lạp Lý thị 伊拉里氏).

Trong bốn tộc, tộc Ô Lạp Na Lạp phần lớn là thương buôn, họ buôn ngựa, vật nuôi và lông thú, sau đó bán đi tại các cao nguyên Kiến Châu trên lưu vực Liêu Hà, trung tâm kinh tế và đất nông nghiệp của vùng Mãn Châu. Họ lần lượt mua các loại ngũ cốc như ngô ở Kiến Châu và bán chúng cho người Mông Cổ. Họ kiểm soát phần thương mại giữa Mãn Châu và Mông Cổ bằng các trạm dọc theo đường đèo, hiện nay là Bạch Thành, Cát Lâm, là nơi duy nhất có thể qua lại giữa hai vùng lúc đó.

Trong khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích từng bước thống nhất người Nữ Chân, các tộc Na Lạp đã phản đối kịch liệt vì họ được nhà Minh đối xử khá tốt. Mặt khác họ cố gắng thoả hiệp với Nỗ Nhĩ Cáp Xích bằng các cuộc hôn nhân chính trị với con gái của các chủ tộc, nổi tiếng nhất là A Ba Hợi của Ô Lạp và Mạnh Cổ Triết Triết của Diệp Hách. Tuy nhiên, Nỗ Nhĩ Cáp Xích dần dà khai chiến với Na Lạp thị, và Cáp Đạt, Ô Lạp và Huy Phát lần lượt sụp đổ. Diệp Hách Na Lạp chống trả lâu dài hơn cả vì là tộc lớn nhất và mạnh nhất, và còn do họ được sự tương trợ của nhà Minh. Lấy cớ nhà Minh giúp đỡ Diệp Hách Na Lạp, Nỗ Nhĩ Cáp Xích dấy binh tấn công cả quân Minh.

Quân Minh và Diệp Hách Na Lạp thua liên tiếp nhiều trận, kể cả trận chiến Sát Nhĩ Hử (薩爾滸之戰), và vị Bối lặc cuối cùng của Diệp Hách Na Lạp là Kim Đài Cát bị bắt phải tự sát hoặc treo cổ. Theo truyền thuyết thời Dân Quốc, Kim Đài Cát trước khi chết đã nguyền rằng một khi hậu duệ của Kim Đài Cát còn sống, dù là nam hay nữ, người đó sẽ luôn nhớ đến huyết thù của tộc và lật đổ họ Ái Tân Giác La, đây được cho là lời đồn nhằm thêu dệt quyền hành của Từ Hi Thái hậu. Vị Bối lặc cuối cùng của Ô Lạp Na Lạp là Bố Chiếm Thái, đồng minh của Diệp Hách Na Lạp, bị bắt và sau đó bị con của Nỗ Nhĩ Cáp XíchTrử Anh giết.

Liên quan